Tuesday, August 21, 2012

Mỹ quyết giành ngôi bá chủ tại đấu trường Thái Bình Dương_ NgV




RIMPAC 2012, Hawaii

Khoảng 80.000 bộ binh cùng 20.000 thủy quân lục chiến sẽ được tinh giảm. 1/2 lực lượng quân đội Mỹ tại châu Âu đang xếp balô lên đường về nước. Thay thế họ là lực lượng đặc nhiệm “bất quy ước”, oanh tạc cơ thế hệ mới, tên lửa “phiên bản cập nhật” và những binh đoàn robot …
Một quân đội “không người”


Máy bay do thám không người lái RQ-4A Global Hawk – một trong những vũ khí cho chiến lược quân sự “tái cân bằng” của Mỹ
(tầm hoạt động 19.500km, bay liên tục 30 tiếng và mỗi giờ có thể giám sát một phạm vi 4.000km2)

left align image
Tàu chiến cận duyên The littoral combat ship Independence (LCS 2)

Đầu năm 2012, trong bản kế hoạch tổng thể phát triển, Ngũ Giác Đài đã đệ trình và đề nghị Quốc hội cấp 525 tỉ USD (cộng thêm 88,4 tỉ USD cho cuộc chiến Afghanistan), so với đề xuất 553 tỉ USD vào năm 2011. Trong báo cáo chương trình chi tiêu gửi Tổng thống Barack Obama đầu tháng 1/2012, Ngũ Giác Đài đã nhấn mạnh đến yếu tố “phi con người”. Các loại máy bay - chiến cụ không người, từ máy bay không người lái (UAV) Predator, Reaper, Fire Scout, X-47B… đến robot dò mìn trong lòng biển đều được nhấn mạnh. Tổng quát, quân số sẽ giảm (có thể lên đến 100.000 binh sĩ) nhưng các hệ thống chiến đấu không người sẽ tăng. Những loại “đồ cổ” cũng sẽ được thay thế (vận tải cơ C-5A và C-130…).

Trong khi đó, hải quân sẽ được trang bị loạt “hàng mới khui thùng” (dù số lượng đặt mua giảm bớt so với dự kiến), trong đó đặc biệt đáng chú ý là các loại tàu chiến với thiết kế tinh chỉnh cơ động, chẳng hạn tàu chiến cận duyên (LCS). Đây là thế hệ tàu chiến rất mới được thiết kế để “tác nghiệp” cận bờ, với kiểu dáng gọn và linh hoạt hơn khu trục hạm, có bãi đáp trực thăng, trang bị tên lửa RIM-116, chạy với vận tốc hơn 74km/g. Chi phí đóng LCS là một trong những yếu tố khiến nó được chú ý: chỉ khoảng 350 triệu USD so với chừng 1,7 tỉ USD của khu trục hạm Aegis. Khả năng tác chiến LCS cũng linh động, từ hải chiến, phá mìn, diệt tàu ngầm đến hỗ trợ đổ bộ… Ngoài LCS, hải quân còn được bổ sung tàu cao tốc hỗn hợp (JHSV). Với vận tốc 35-45knot (65-83km/g), JHSV chuyên vận chuyển vũ khí cũng như giúp thủy quân lục chiến thâm nhập bờ biển chớp nhoáng. Tháng 11/2008, Hải quân Mỹ đã trao hợp đồng cho Hãng đóng tàu Austal của Australia đóng 9 chiếc JHSV từ 2009-2013 với giá tổng cộng hơn 1,6 tỉ USD. Một trong những JHSV đã được đóng xong và đang chạy thử là chiếc USNS Spearhead (hạ thủy tháng 9/2011)... Tất cả cho thấy xu hướng “nhanh và gọn” của Hải quân Mỹ thế kỷ XXI, ngày càng được ưu tiên phát triển, song song việc duy trì những thứ hạng nặng truyền thống, chẳng hạn hàng không mẫu hạm (HKMH).

“Sine qua non”-Yếu tố tối thượng !

Với Mỹ, HKMH là một sine qua non (điều kiện tối thượng). Chương trình HKMH thế kỷ XXI của Mỹ gồm việc đóng mới lớp Gerald R. Ford, với 2 tàu - USS Gerald R. Ford và USS John F. Kennedy - dự kiến được “biên chế” vào năm 2015 và 2019. Tổng cộng, theo Navy Times (15/5/2012), sẽ có chừng 10 HKMH lớp Gerald R. Ford đóng liên tục từ nay đến năm 2058. Có trọng lượng nước rẽ khoảng 100.000 tấn, tương tự chiếc USS George H. W. Bush (lớp Nimitz; hạ thủy năm 2006), nhưng HKMH lớp Gerald R. Ford (trị giá khoảng 15 tỉ USD) đã được điều chỉnh thiết kế lại nhiều phần, với kho chứa tên lửa đạn dược rộng hơn cũng như chở được nhiều máy bay hơn…
Mỗi chiếc lớp Gerald R. Ford giúp tiết kiệm được hơn 5 tỉ USD trong 50 năm phục vụ. Cụ thể, tổng chi phí vận hành của HKMH lớp Nimitz trong 50 năm là 32,1 tỉ USD (theo thời giá 2004) trong khi USS Gerald R. Ford chỉ khoảng 26,8 tỉ USD. Được nâng cao tính tự động hóa, lớp Gerald R. Ford cũng giúp giảm đáng kể quân số thủy thủ đoàn. Cần biết (theo navy.mil/navydata), tàu lớp Nimitz (thế hệ 1970 – hiện có 10 chiếc đang hoạt động, gồm USS Nimitz, USS Theodore Roosevelt, USS Harry S. Truman, USS Ronald Reagan, USS George Washington – thuộc Hạm đội bảy…) cần đến khoảng 5.000-5.500 người; và tàu lớp Enterprise (thế hệ 1960, hiện có mỗi chiếc USS Enterprise; bắt đầu nghỉ hưu năm 2013) cần hơn 5.800 người. Trong khi đó, tàu lớp Gerald R. Ford chỉ cần hơn 4.600 người...


HKMH USS George Washington – thuộc Hạm đội 7 trấn ải Thái Bính Dương

Xào lại cỗ bài để đánh ván mới


Những chi tiết liên quan “kỹ thuật” nói ở trên không chỉ cho thấy sự thay đổi diện mạo quân đội Mỹ mà còn cho thấy sự điều chỉnh chiến lược an ninh của Mỹ, khi vấn đề bây giờ ai là đối thủ và cần có gì để đối phó với đối thủ đó đã trở nên rõ ràng. Trong thực tế, không phải chờ đến lúc Bộ trưởng quốc phòng Leon Panetta đến dự Đối thoại Shangri-La đầu tháng 6/2012 người ta mới biết Washington sẽ chuyển “hỏa lực” Hải quân Mỹ sang Đông Nam Á, với tỉ lệ 60/40 dành cho Thái Bình Dương so với Đại Tây Dương. Tản mát trong những phát biểu đó đây của giới chức quân sự Mỹ đã bộc lộ việc chuyển “thuốc súng” như vậy rồi.
Thời gian gần đây, Quốc hội Mỹ luôn nhấn mạnh việc cần có một hải quân mạnh về chất lẫn lượng. “Làm thế nào chúng ta có thể hoàn thành những nhiệm vụ cần hoàn thành ở Châu Á - Thái Bình Dương với số tàu ít ỏi như thế?” – phát biểu của dân biểu Rodney P. Frelinghuysen tại phiên điều trần Tiểu ban Quản lý chi tiêu (nơi có sức ảnh hưởng nặng ký trong Quốc hội). “Làm thế nào mà các anh chỉ có một con tàu cho hai địa điểm cùng lúc?” – phát biểu tiếp theo của dân biểu Ander Crenshaw. “Ôi, tôi nhớ làm sao cái thời mà hải quân chúng ta có đến 600 con tàu…” – than thở của dân biểu Jo Bonner . . .


USNS Spearhead, “hàng mới khui thùng” năm 2011, một trong những tàu chiến thế hệ mới của Hải quân Mỹ sẽ ưu tiên cho "đấu trường" Thái Bình Dương

Đó là thái độ phản hồi trước kế hoạch của Tư lệnh Hải quân Jonathan Greenert, về việc duy trì một lực lượng vỏn vẹn 285 tàu trong 5 năm tới (Wired 1/3/2012), trong khi Tòa Bạch Ốc dự tính giảm 7 tuần dương hạm trong 5 năm tới, mua ít hơn 1 tàu ngầm lớp Virginia và hoãn thay thế tàu ngầm lớp Ohio trong 2 năm… Đô đốc Greenert giải trình: hải quân sẽ đưa “50 tàu đến Tây Thái Bình Dương; trong 5 năm, con số đó sẽ là 55; tại vùng Vịnh là 30 rồi từ từ là 32”. Dù ngân sách 2012 bị giảm 2,5% so với 2011 nhưng hải quân vẫn duy trì những “sine qua non” lẫn các phi đội chiến đấu cũng như ngân sách R&D. Và vào giờ này sang năm (2013), theo đô đốc Greenert, USS Freedom - chiếc đầu tiên trong 55 tàu LCS mà hải quân đặt mua - sẽ đến Singapore. Loại tàu có khả năng tác chiến linh hoạt như USS Freedom sẽ đóng vai trò như những con cờ di động, được cơ biến dịch chuyển, tùy “tình hình thời sự”. Việc có mặt 16 tháng của chúng tại một “trạm”, như được quy định, sẽ giúp những con tàu khác rảnh hơn để rồi lại dễ dàng được điều chuyển đến nơi khác. Sự thay đổi liên tục của những quân cờ sẽ tạo ra một thế cờ vây rối mù khó đoán...
Dựa vào viễn kiến cũng như hành động của giới chỉ huy Hải quân Mỹ, có thể nói rằng, sự cân chỉnh quan trọng nhất là chiến lược tiếp cận mang tính địa lý song song việc dồn hỏa lực ngoại giao vào Thái Bình Dương – một chiến lược được triển khai theo tư duy và tầm nhìn chứ không đơn giản xuất phát từ lý do “cơ chế” ngân sách. Chỉ trong vài năm, HKMH USS Kitty Hawk (chiếc cuối cùng của lớp Kitty Hawk) đã được cho nghỉ hưu và thay bằng USS George Washington tại biển Nhật Bản; dàn khu trục hạm tại Yokosuka nhất loạt được nâng cấp (hiện gồm 7 tàu đều được trang bị hệ thống tên lửa bắn chặn Aegis); đưa 3 tàu ngầm tấn công chạy hạt nhân lớp Los Angeles đến Guam; đưa 3 UAV do thám Global Hawk đến “thường trú” tại căn cứ Guam; tăng số tàu quét thủy lôi đến Sasebo - Nhật (từ 2 lên 4); nâng cấp loạt sân bay, cầu cảng và hạ tầng Hải quân Mỹ tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; lập kế hoạch xây bến cảng có khả năng giúp HKMH neo đậu tại Guam…

Cùng lúc, Mỹ cũng áp dụng chiến thuật GMP (Global Maritime Partnership - Đối tác hàng hải toàn cầu) – một khái niệm giúp tăng cường hợp tác để mang lại sức mạnh cho một lực lượng Hải quân vốn đang bị co rút về mặt “số học”. Nói cách khác, đó là “kỹ thuật” dùng sức người để tạo thêm sức cho mình. Bằng công cụ GMP, có thể nói hải quân Mỹ không chỉ có “285 tàu trong năm năm tới” mà có thể có đến gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba, nhờ sự cộng thêm lực lượng hải quân các nước đồng minh. GMP không chỉ là cách để gián tiếp tăng quân số mà còn tăng tính hiệu quả và xác suất thành công để thực thi một sứ mạng quân sự. Công thức GMP đã thể hiện cụ thể ở những cuộc phối hợp tập trận, bởi các thương vụ vũ khí, bởi những chuyến kinh lý thực địa của giới chức ngoại giao và quốc phòng... Kể từ khi chiếc khu trục USS Vandegrift trở thành con tàu chiến Mỹ lần đầu tiên đến Sài Gòn (tháng 11/2003) sau 30 năm, đã có hơn 20 tàu chiến Mỹ cập cảng nước ta (Navy Times 3/6/2012). Tương tự, tháng 7/2007, lần đầu tiên 1 HKMH Mỹ (USS Nimitz) đã cập cảng Chennai của Ấn Độ; và tháng 4/2011, USS La Jolla cũng trở thành chiếc tàu ngầm hạt nhân Mỹ lần đầu tiên đến nước này...
Gút lại, để biết Mỹ liệu có đủ sức “ôm sô” tại Đông Nam Á hay không, có lẽ không cần thiết đếm họ có bao nhiêu con tàu mà phải quan sát xem thể hiện của chiến lược GMP như thế nào. Sức mạnh của hỏa lực Mỹ tại đấu trường Thái Bình Dương giờ đây đang nằm trong GMP…

Tomahawk đã lạc hậu ở đấu trường Thái Bình Dương


Tăng cường tập trận với đồng minh tại “trao trường” Thái Bình Dương là thể hiện của tinh thần tiếp cận mới của Mỹ trước khuynh hướng quân sự hóa vấn đề chủ quyền Biển Đông từ Trung Quốc (RIMPAC 2012, Hawaii)

Khi tuyên bố “khiêng thuốc súng” sang Châu Á - Thái Bình Dương với tỉ lệ 60% so với 40% dành cho Đại Tây Dương, Mỹ đã chuẩn bị những gì?
Có thể nói diện mạo Hải quân Mỹ đã thay đổi gần như lột xác với sự xuất hiện của tên lửa hành trình Tomahawk vào thập niên 80 của thế kỷ trước. Trong nhiều năm, gần như chẳng có vụ xung đột nào mà Mỹ không mang Tomahawk ra dùng. Trong cuộc chiến Iraq 1991, 288 trái Tomahawk đã được bắn; trong cuộc chiến Nam Tư 1999, 218 trái được sử dụng; trong cuộc chiến Iraq 2003, hơn 725 trái được phóng… Tính đến ngày 16/3/2011, Hải quân Mỹ đã bắn quả Tomahawk thứ 2.000, từ khu trục hạm USS Barry, trong chiến dịch oanh kích mục tiêu phòng không của Libya (Proceedings Magazine, 1-2012). Kể từ thập niên 80 đến nay, Tomahawk đã được nâng cấp với nhiều phiên bản và chắc chắn sẽ tiếp tục được dùng trong tương lai…
Tuy nhiên, Tomahawk không còn là chọn lựa duy nhất. Loại vũ khí “kinh dị” đang muốn nói đến là railgun. Về cơ chế, railgun chẳng khác gì một vũ khí… cổ đại, hoạt động như loại súng thô sơ thời La Mã khi chỉ bắn ra một… cục sắt (tức đầu đạn không thuốc nổ), từ một hệ thống đường ray từ trường, như thể nó được bật ra từ… dàn ná! Tuy nhiên, railgun chắc chắn sẽ như Tomahawk hồi thập niên 80, một lần nữa tạo ra diện mạo mới cho hải chiến tương lai. Bởi cái “dàn ná” railgun có thể bắn ra viên đạn 18kg xa đến 320km hoặc hơn (so với khoảng cách xa nhất là 13km của loại đại bác được lắp trên các tàu chiến Mỹ hiện nay). Và vận tốc của viên đạn railgun là Mach 7 (8.575km/g) hoặc thậm chí Mach 10 (12.250km/g)! Trong cuộc thử nghiệm tháng 12/2010 do Phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ (ONR) thực hiện, khẩu railgun đã bắn ra viên đạn 10,4kg với vận tốc 1,6km/giây. So với railgun, Tomahawk - với vận tốc khoảng 880km/g (0,24km/giây) - đã không còn đáng gọi là “vũ khí hiện đại”!

left align image
Trong cuộc thử nghiệm tháng 12/2010 do Phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ (ONR) thực hiện

Về đạn đạo học, railgun có thể giúp viên đạn giảm được hiệu ứng “đạn rơi” (bullet drop) do tác động của lực hấp dẫn, lẫn hiệu ứng “gió cản” (wind drift) do ma sát với không khí. Cần biết, về lý thuyết, sự hạn chế bởi ảnh hưởng từ hiện tượng giãn nở không khí sẽ khiến một viên đạn thông thường không thể bay với vận tốc lớn hơn 1,5km/giây và xa hơn 80km. Bằng cách gia tốc cho viên đạn railgun (có thể lên đến 3,5km/giây, tức Mach 10), người ta đã phá được rào cản tự nhiên trên. Về vật lý học, một vật thể bay nhanh như vậy sẽ tạo ra sức công phá kinh khủng khi va chạm. Do vậy, với railgun, tàu chiến Mỹ không cần phải vác theo nhiều đạn dược và tên lửa truyền thống, vừa hạn chế khả năng cháy nổ, vừa tiết kiệm được không gian trên tàu, vừa giúp tàu nhẹ hơn và do đó chạy nhanh hơn. Và tất nhiên “cục sắt” của railgun rẻ hơn nhiều so với 1,45 triệu USD/chiếc của tên lửa Tomahawk vốn được lắp đủ thứ thiết bị điện tử phức tạp. Trong khi đó, railgun vẫn có thể tác chiến tốt với các mục tiêu trên đất liền, dưới biển hoặc trên không. Và với lợi thế bay cực nhanh, mức độ chính xác của viên đạn railgun là điều có lẽ không cần bàn cãi.
Từ khi dự án được triển khai vào năm 2005 (với chi phí 240 triệu USD tính đến thời điểm hiện tại), railgun đã được thử nghiệm nhiều lần. Có hai hãng đang cạnh tranh quyết liệt để giành thầu là General Atomics và BAE Systems. Trong cuộc thử nghiệm tháng 9/2010, khẩu railgun General Atomics Blitzer đã bắn một viên đạn được thiết kế trông như… chiếc guốc (Phantom Works của Boeing chế tạo) bay ra với vận tốc 1,6km/giây, tức Mach 5 (nó còn “ráng” bay thêm 7km sau khi xuyên thủng một tấm thép dày!). Và trong cuộc thử nghiệm cuối tháng 2/2012, khẩu 32-MJ LRG của BAE Systems lại gây kinh ngạc hơn khi nó dùng nguồn điện đến 32 megajoule (nguồn điện càng cao, súng càng mạnh). Mục tiêu của BAE Systems là tạo ra khẩu railgun với nguồn điện lên đến 64 megajoule, có khả năng tống ra viên đạn bay xa 321km trong sáu phút. Cần biết, một megajoule tương đương một triệu joule, tức tạo ra nguồn động năng tương ứng với chiếc xe tải một tấn chạy với vận tốc 160km/g.

Không chỉ railgun

Lấy đâu ra nguồn điện kinh khủng cho railgun? Theo Tiến sĩ Amir Chaboki, quản lý Dự án railgun của BAE Systems, chiếc khu trục thế hệ mới nhất DDG 100 thuộc lớp Zumwalt (3,3 tỉ USD/chiếc) sắp ra mắt, với hệ thống điện 72MW, hoàn toàn có thể cung cấp đủ điện năng cho dàn railgun 64 megajoule. Khi lâm chiến, tốc độ của chiếc khu trục có thể bị giảm do phải nhường điện cho railgun nhưng, theo tính toán của Chaboki, điều này không làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng tác chiến. Nếu khẩu railgun 64 megajoule bắn 6 phát/phút, nó cần nguồn điện chỉ khoảng 16MW. Phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ (ONR) tin rằng, giai đoạn hai của quá trình nghiên cứu - phát triển railgun sẽ kết thúc vào năm 2017 và, nếu được Quốc hội chuẩn y ngân sách “sắm hàng mới”, nó sẽ được lắp cho tàu chiến Mỹ vào trước năm 2025...
Song song tiến trình nghiên cứu railgun là súng laser điện tử tự do (free-electron laser - FEL). Về lý thuyết, FEL có thể xuyên thủng khối thép 6m chỉ trong một giây, đủ để “sực” một hàng không mẫu hạm đối phương! Chỉ trong 4 năm nữa, FEL có thể được trang bị cho tàu chiến Mỹ - khẳng định của Mike Deitchman, người quản lý chương trình phát triển vũ khí tương lai của ONR (Wired, 30/3/2012). Tháng 4/2011, Hải quân Mỹ đã bắn thử một khẩu FEL “loại hạng ruồi” với tia laser chỉ 15kW. Trong cuộc thử nghiệm trên, khẩu FEL đã phóng ra tia laser xuyên lòng biển California và đốt cháy cỗ máy một con tàu đang di chuyển cách đó 1,6km. Trước đó, đầu năm 2010, một khẩu laser của Hãng Raytheon cũng bắn hạ được chiếc máy bay không người lái trong một cuộc thử nghiệm…
Thường thì tất cả tia laser đều hoạt động theo cách dùng năng lượng để tích điện cho nguyên tử để tạo ánh sáng hội tụ và muốn được như vậy phải cần đến “trung gian” - vài tia cần hóa chất trong khi vài tia khác cần thấu kính - để có thể lọc và biến ánh sáng thì tia sáng cực mạnh với bước sóng không đổi. Trong khi đó, FEL dùng luồng điện tử siêu tích điện mà không lệ thuộc chất trung gian (do đó gọi là “điện tử tự do”) để tạo ra luồng tia với loạt bước sóng khác nhau. Chính yếu tố có thể “nhồi” tùy ý để tăng bước sóng khi dòng điện tử tự do chạy ngang vùng từ trường đã giúp cho tia FEL trở nên cực mạnh. Và nhờ khả năng có thể “chạy” với loạt “bước sóng đa cấp”, lực của tia FEL sẽ không bị “thất thoát” trên đường đi. Kỹ thuật có thể tùy chỉnh bước sóng cho laser, một đột phá ngoạn mục, chính là cốt lõi của vũ khí FEL.

Súng electromagnetic-railgun (trái) và súng laser điện tử tự do (free-electron laser - FEL), phải, thuộc thế hệ vũ khí có thể thay đổi cục diện chiến tranh tương lai, đặc biệt hải chiến.

Vài năm nay Hải quân Mỹ tỏ ra rất “khoái” FEL (cũng như railgun) và họ tin rằng đó là những thế hệ vũ khí có thể thay đổi cục diện chiến tranh tương lai, đặc biệt thủy chiến. Tháng 4/2009, ONR đã trao gói thầu nghiên cứu chế tạo FEL cho Boeing. Trong thông cáo báo chí ngày 18/3/2010, Boeing cho biết họ đã hoàn thành giai đoạn thiết kế sơ khởi cho FEL và tiếp tục phát triển hệ thống để nó có thể bắn ra tia 100kW hoặc hơn (đủ để diệt chiến đấu cơ). Song song gói thầu đặt hàng cho Boeing, ONR cũng hợp tác nghiên cứu với Phòng Thí nghiệm Los Alamos. Có một chi tiết ngoài lề đáng để ý: bản tin của Fox News đề ngày 20/1/2011 cho biết, người đứng đầu chương trình FEL của ONR tại Los Alamos là một tiến sĩ gốc Việt !
M.K. (PetroTimes) dịch và tổng hợp, hình ảnh bởi QHNM

Nam Yết chuyển

No comments: