Friday, March 20, 2015

HRW: Abbott có thói quen coi trọng các chính quyền độc tài. Liệu với trường hợp Việt Nam có gì khác chăng? Elaine Pearson

Vietnam's Prime Minister Nguyen Tan Dung and Australia's Prime minister Tony Abbott

 
Khi Thủ tướng Úc Tony Abbott gặp gỡ người đồng nhiệm Nguyễn Tấn Dũng ở Canberra vào tuần này, liệu ông ta sẽ chỉ khen ngợi các tiến bộ kinh tế của Việt Nam mà lờ đi tình trạng nhân quyền tồi tệ của quốc gia này không? Điều này rất có thể xảy ra. Rốt cuộc, chính quyền Úc đã có thói quen trọng thị các quốc gia như Cambodia, Sri Lanka và Trung Quốc như những người “bạn tốt” của Úc mà lờ đi thành tích nghèo nàn của những quốc gia này về nhân quyền.

 
Không nên để những “người bạn” của chúng ta qua mặt dễ dàng như vậy. Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia cộng sản độc đảng trên thế giới. Trong suốt chín năm qua, ông Dũng là người chỉ đạo đàn áp các quyền tự do cơ bản, kiểm duyệt tràn lan và kiểm soát tôn giáo. Hơn 100 tù nhân chính trị hiện còn đang bị giam giữ sau song sắt ở Việt Nam.
 
Trong số các tù nhân có những người phụ nữ như bà Hồ Thị Bích Khương, 48 tuổi, một blogger và nhà vận động quyền lợi đất đai, từng tố cáo nỗi khổ cực của những người nông dân bị mất đất, phơi bày cái giá rất lớn mà người dân phải trả, thường ít ai nhìn thấy, của mức tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam. Chính quyền Việt Nam đã đáp lại những nỗ lực của bà Khương bằng những hành động đàn áp và truy tố: bà đã phải ra tù vào tội, và hiện đang phải thụ án năm năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”
 
Cũng trong số người đang phải ngồi tù còn có bà Mai Thị Dung, một nhà hoạt động Phật giáo Hòa Hảo. Chính quyền Việt Nam thường xuyên giám sát và sách nhiễu các nhóm tôn giáo hoạt động ngoài các giáo hội được đăng ký với nhà nước. Nhóm Phật Giáo Hòa Hảo độc lập của bà bị công an theo dõi gắt gao và đe dọa. Tòa án xử bà tổng cộng 11 năm tù về vai trò của bà trong các cuộc biểu tình của nhóm.
 
Chính quyền Úc biết rõ các vấn đề những nhà hoạt động như trên đang phải đối mặt. Úc có vẻ như đã nêu các vụ tù nhân chính trị tại các diễn đàn, ví dụ như tại cuộc đối thoại nhân quyền  thường niên Việt – Úc. Nhưng những cuộc đối thoại kín giữa các quan chức cấp trung của hai nước như thế thường chỉ là những buổi diễn kịch mà thôi.
 
Thực chất, với một động thái coi thường và nhạo báng đối với chính tinh thần đối thoại nhân quyền, năm ngoái chính quyền Việt Nam đã cản trở một số nhà hoạt động tham dự một hội thảo về tự do truyền thông, mà chính quyền Úc cũng tham gia tổ chức.
 
Cuộc đối thoại này, cũng như các cuộc đối thoại nhân quyền khác của Úc với Trung Quốc và Lào, bị cho là chưa đủ mức độ đáng tin, vì thiếu minh bạch về nội dung được thảo luận, và không đưa ra được những mốc công khai rõ ràng để đo mức độ tiến bộ về nhân quyền.
 
Sự tồn tại của cơ chế đối thoại song phương không có nghĩa là Abbott và Julie Bishop, bộ trưởng ngoại giao, có thể tránh đề cập đến những trường hợp trên trong chuyến thăm của ông Dũng. Abbott đã nói nhiều về tầm quan trọng của tự do ngôn luận và tự do chính kiến ở Úc. Những quyền tự do đó, đang bị chính quyền chà đạp, là hết sức cấp thiết đối với người dân Việt Nam.   
 
Xét mọi phương diện, Việt Nam không hề đạt được, hay đạt rất ít tiến bộ trong các vấn đề như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, khi những người chỉ trích chính quyền không thể tránh khỏi kết cục vào tù vì chính kiến bất đồng. Nếu ngoài việc thảo luận kín, các nhà lãnh đạo Úc không đưa ra được những tuyên bố công khai bày tỏ quan ngại sâu sắc, thì không những họ đã lỡ mất một cơ hội mà còn thất bại trong việc công khai đứng về phía những người dân Việt Nam bị áp bức.
 
Đương nhiên, nước Úc nên tìm kiếm quan hệ tốt với các láng giềng của mình. Điều đó cũng có nghĩa là cần bày tỏ mối quan tâm về nhân quyền – tức là, kết bạn với toàn thể người dân Việt Nam, chứ không phải chỉ với những nhà cầm quyền.
 
Những tuyên bố tốt đẹp về tình hữu nghị với các chính quyền độc tài sẽ gây ra hậu quả đối với người dân sống dưới các chế độ đó. Khi chính quyền Úc khen ngợi cựu tổng thống Mahinda Rajapaksa của Sri Lanka mà xem nhẹ các vụ thảm sát do chính quyền ông ta gây ra trong cuộc nội chiến ở nước này, điều này đã tạo cho ông ta một hậu thuẫn chính trị bao che cho các hành vi đàn áp những người lên tiếng phê phán chính phủ, và bất chấp sức ép quốc tế đòi hỏi Liên hiệp quốc về điều tra tội ác chiến tranh ở Sri Lanka.
 
Sau khi Rajapaksa bị đánh bại trong cuộc bầu cử gần đây, và một chính phủ Sri Lanka mới đã lên tiếng phản đối sự im lặng của Úc về các vi phạm nhân quyền, Úc giờ đây bị coi là chọn nhầm phía của lịch sử. “Khi quyền con người bị chà đạp, và dân chủ còn bị ức chế, thì các nước này đã im lặng. Đó là vấn đề đối với Sri Lanka,” thủ tướng mới Ranil Wickremesinghe nói vào tháng Hai vừa qua.
 
Tất nhiên, bản thân Úc cũng mắc những lỗi nghiêm trọng về nhân quyền, trong đó có chính sách đối xử với người nhập cư và thổ dân bản xứ. Nhưng những vấn đề về nhân quyền của một quốc gia này không phải là cái cớ để lờ đi những vi phạm về nhân quyền ở các nơi khác.
 
Những thông điệp, cả kín lẫn công khai, chuyển tới ông Dũng trong chuyến thăm này đều có ý nghĩa rất lớn – đối với cả người dân lẫn chính quyền Việt Nam. Nêu quan ngại về nhân quyền không phải là “rao giảng,” như ông Abbott hẳn sẽ nói. Đó là duy trì quan điểm nhất quán và phù hợp với nguyên tắc về các quyền con người cơ bản mà tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã đồng ý tôn trọng.

Bài đã đăng trên The Guardian

No comments: